ThÆ¡Ìi sÆ°Ì£ 24h.wapgem.comgiaitri24h.wapgem.com
Bạn đang ở :
Trang 366 tới 386
<< NANG THƠ CẨM TÚ >>
Trang 366
Trời thanh lặng gió đưa hiu-hắt,
Ngồi thơ phòng thân bắt lạnh-lùng.
Gẫm xác trần còn cách cội thung,
Đâu có được giũ mùng quạt gió.
Cơn mừng vui nào ngờ lũ ó,
Vội bay ngang rồi xớt đi luôn.
Chữ ngậm-ngùi lụy ngọc ứa tuôn,
Nào phải giống chim muông điểu-thú.
Lìa quê-hương quên câu nghĩa cũ,
Bởi xác phàm hấp thụ đã lâu.
Cuộc lung-tung rối-rắm trời Âu,
Nên còn ngại bước đường trở gót.
Tiếng riêng than tai nghe thảnh-thót,
Trăm ngàn nhà bổn-đạo ước mơ.
Con lạc cha con hỡi u-ơ,
Thầy xa tớ ngẩn-ngơ thương mến.
Ngóng trông chờ vận-thời đưa đến,
Đặng chung cùng một tiệc quỳnh-tương.
Cây ngô-đồng hứng vẻ đượm sương,
Cho chim phụng mặc tình sè múa.
Cảnh sum-vầy mây lành bay tủa,
Cả trời Nam lưới bủa thiên-la.
Chữ Thánh Hiền mới được nôm-na,
Ta thỏa chí hô-hào trung nghĩa.
Giống hiền xưa bây giờ mới tỉa,
Dốc chờ ngày bông trổ thơm-tho.
Tuy ngày nay chưa được ấm no,
Sau được dựa nơi non nhược thủy.
Trang 367
Đây trưng bày khuyên gìn cang-kỷ,
Đờn những câu tỉ-mỉ rung hồn.
Cho người lành dạ ái bắt nôn,
Cúi đầu trước quy-y Phật-Pháp.
Quản chi thân bị mưa, nắng táp,
Nơi sang giàu ấm-áp mặc ai.
Vẽ cho dân lập chí râu mày,
Phá tan óc tinh-thần nhu-nhược.
Thân nặng nề như chim ô-thước,
Quyết làm xong cầu đá sông Ngân.
Nên chẳng màng báu ngọc châu trân,
Miễn con thảo nhuần ân Thánh-Đế.
Đứng anh-hùng dựng nên thời-thế,
Sá chi loài trùn dế nhỏ-nhen.
Vội đem lòng cượng lý ghét-ghen,
Thêm cùng bớt tiếng kèn lời huyễn.
Chốn âm-ty ngưu đầu, mã diện,
Đang trông ngày tới số bắt hồn.
Cõi âm thần bịnh sái dịch ôn,
Chờ mãn phước ra tay bẻ họng.
Cửa Tiên-bang hãy còn khóa cổng,
Nhà cha xưa cửa đóng then gài.
Con nào hiền thì vẹn thảo ngay,
Đứa ngỗ-nghịch một mai đứt cổ.
Nhìn gương kiếng sao không biết hổ,
Lũ gian thần nào biết Tổ-Tông.
Làm âu-sầu một góc trời Đông,
Bị miệng sói thổi lông tìm vít.
Văn cang-thường đem ra bày trích,
Vạch chỉ lời cổ tích người xưa.
Trang 368
Nghĩ vì đâu có cuộc giày bừa,
Cho lăn-lóc những người mới tỉnh.
Phải chi Phật lấy ngay bình tịnh,
Rưới cho trần được tỉnh chút tâm.
Mãi để câu vi diệu thậm thâm,
Cho sanh-chúng rừng lâm khó mở.
Được gió nhẹ ngờ đâu dễ thở,
Bỗng dông luồng âm khí nặng-nề.
Phải ngóng chờ cho phụng gặp kê,
Ấy thi đại Thánh Tiên trổ mặt.
Càng nhìn dân lòng tơ siết chặt,
Đau chi bằng đau khúc đoạn-trưng.
Ước sao mà thuận gió buồm trương,
Đò bát-nhã rước tôi lương đống.
Ngày vui tươi cũng đà lố bóng,
Cớ sao đời còn mãi say-sưa ?
Không tìm Thầy đặng hưởng phước thừa,
Ngày lập Hội tay vin nhành quế.
Trau thân phận rạng danh hiếu đễ,
Thỏa dạ Thầy nơi chốn mây rồng.
Đừng chia lìa Bắc tổ Nam tông,
Chỉ biết giống Lạc-Hồng Thượng-cổ.
Tai nghe chi những câu ái ố,
Lòng từ-bi chớ cố lời gièm.
Đạo hiểu rồi ngon tợ gỏi nem,
Tuy cõi thế lấm-lem trần-tục.
Mây ganh hờn đầy lòng nghi-ngút,
Giữ dạ trong đừng đục mới mầu.
Thân bần tăng mặc bộ sồng nâu,
Cuộc thiên-lý một bầu đều hãn.
Trang 369
Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,
Trên đài cao gọi các linh hồn.
Nay ngu khờ len-lỏi hương-thôn,
Sau đắc Đạo tiếng đồn bốn biển.
Giảng với sấm ra tài sửa kiểng,
Kệ cùng ca lựa tuyển con lành.
Tuy là Ta không thể sanh-thành,
Nhưng thương hết ra tài dạy-dỗ.
Đời phải biết suy kim nghiệm cổ,
Thông cơ-đồ dựng nghiệp Thánh Hiền.
Ta quyết lòng rứt nợ oan-khiên,
Cứu bá-tánh khỏi nơi lao-khổ.
Gà lôi sớm mượn oai tố-hộ,
Có một ngày rớt lốt hổ-hang.
Nhu hiền hòa nhược ắt thắng cang,
Đời cùng Đạo bi hoan, ly hiệp.
Tấm lòng thành gian-truân chớ khiếp,
Đức từ-bi tiếp-dẫn linh-hồn.
Nén hương nguyền cầu với Phật-Tôn,
Ban phước-huệ cứu nàn dương-thế.
Nhớ thuở nhỏ nhờ ơn bồng-bế,
Nay được nên vai-vế trưởng thành.
Ngẫm cuộc đời hai chữ trược-thanh,
Thân hành Đạo vang danh khắp chốn.
Nhưng ngặt nỗi gặp đời hỗn-độn,
Câu quân-thần, phụ-tử rã-rời.
Khuyên tu hành hao sức tổn hơi,
Chẳng hề mở miệng ra than trách.
Hãy bỏ dứt tánh tình kiêu-cách,
Các con lành khá chọn ngay đường.
Trang 370
Tuy thân Thầy lướt cuộc gió-sương,
Mà thỏa chí tang-bồng hồ-thỉ.
Câu trượng-phu là trang nghĩa-sĩ,
Chữ anh-tài của đấng trung-lương.
Phận tu hành đạm bạc rau tương,
Miễn cầu được an-khương bốn-bể.
Rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ,
Gọi hồn người hành thiện truy kinh.
Ra khuyên dân hẹn có sơn-minh,
Dìu bá-tánh hứa câu thệ-hải.
Miễn tâm được hư-vô tồn-tại,
Sống ở trần hối-cải tiền phi.
Sống làm sao vẹn chữ tu-mi,
Sống vùng-vẫy râu-mày nam-tử.
Tự như nhiên oai-phong thiên-tứ,
Bút thần-linh mượn mực tay đề.
E dương-trần công việc trễ-bê,
Nên giục-thúc nhơn-sanh cày cấy.
Dụng Bá-Nha lên dây đờn khảy,
Lo cho đời quên vóc ốm gầy.
Ngày hằng mong gặp hội Rồng-mây,
Xanh men-mét cũng thây thịt xác.
Đi tới đâu giúp người khao-khát,
Ngặt giếng sâu khó múc mau đầy.
Trong suốt ngày làm việc lây-quây,
Dùng giấy, mực trưng-bày đạo-đức.
Biết bao giờ gái trai tỉnh thức,
Trẻ cùng già đồng hiểu Phật gia.
Nương hùng-phong trổi giọng cuồng-ca,
Ca cuộc thế ca câu khuynh-đảo.
Trang 371
Buổi nhập tiệc trải qua tràng pháo,
Khói mịt-mù văng xác đầy đưng.
Cuộc đời nay như ngựa buông cương,
Khó dừng lại vó cu lụp-bụp.
Mặt nước biển lô-nhô lặn-hụp,
Chim đua bay, cá lại tranh mồi.
Ngọn thủy-triều nô-nức sục-sôi,
Bầu trái đất một phen luân-chuyển.
Ta là kẻ tu-hành thiển kiến,
Xét thế-trần luận-biện đôi điều.
Chớ đâu nào bày việc trớ-trêu,
Muốn giác-tỉnh người mê trở lại.
Mong sanh-chúng học điều thông-thái,
Rèn tâm lành bác-ái trau-tria.
Hành đạo thiền cấp-cấp sớm khuya,
Lòng thương chúng khuyên-răn đủ thế.
Mà nào khác chợ trưa đồ ế,
Bán rẻ-rề ít kẻ hỏi mua.
Mảng lo theo lối mới tranh-đua,
Lại bỏ ngón se-sua học-thức.
Thân hèn-yếu lại vô năng-lực,
Chẳng tìm nơi thuốc nhiệm sửa gân.
Miệng toàn lời bắt-chước chúa Tần,
Muốn chôn sống anh-tài nhu-sĩ.
Nhưng mắc phải từ-bi lập chí,
Lược cùng thao, thao lược vẹn hai.
Của Thần Tiên đã sắp sẵn bày,
Nhờ ơn mọn giúp thêm chí cả.
Miệng nhích môi đầy văn tao-nhã,
Hạ bút thần thơ đã đề khai.
Trang 372
Khó làm cho Hiền-Thánh lung-lay,
Chỉ tưới nước vun phân cây quí.
Thêm mắc phải tay chàng Nhạc-Nghị,
Cận Thầy xưa định việc an dân.
Tiết trung-lương hiếu-nghĩa rạng ngần,
Ông Bàn-Cử mẹ ghi chạm thịt.
Luận sơ-sơ cho dân rõ tích,
Để chờ ngày hoán võ hô phong.
Ban cho đời thoát chữ cay-nồng,
Nay giục thúc câu quân tu ký.
Ngày nào mà Phật Tiên tọa vị,
Ấy thời lai bình trị muôn dân.
Khắp các nơi chư quốc xưng thần,
Trong bốn biển chúng dân lạc-nghiệp.
Theo dõi gót người xưa mới kịp,
Vừng mây lành ngũ sắc hào-quang.
Phật, Thánh, Tiên, Đông-Độ lướt sang,
Miền Nam-địa phân chia đẳng-cấp.
Nước cờ mới nay đà khởi sắp,
Trổ tài hay biển lấp non dời.
Dưới cùng trên ảm-đạm khí trời,
Cả thế-giới mưa hòa gió thuận.
Tạo nền móng Thánh-quân đặt vững,
Nơi triều-ca gầy-dựng tôi hiền.
Giờ mắc câu thiên lý vị nhiên,
Nên còn đãi thiên oai nấy lịnh.
Tỏ tình đời ít câu cung thỉnh,
Mong khán-quan vào cửa xem tuồng.
Cỏ cùng cây điểu-thú chim-muông,
Nhơn với vật huờn lai bổn-tánh.
Trang 373
Đó mới biết ai là Phật Thánh,
Ai thảo-hiền ai lỗi đạo nhà.
Đồng hát câu phụ-tử khải-ca,
Chúc trăm họ muôn nhà thạnh-thới.
NGÂM
Bồ-đào rượu thánh trà tiên,
Muôn năm cọng lạc chúa hiền tôi trung.
Nhơn-Nghĩa, ngày 29-5 Canh-Thìn
Hỏi HẰNG-NGA : ( Cổ-Thi )
Ớ ớ Hằng-Nga dám hỏi đon,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn ?
Ba mươi, mồng một đi đâu vắng ?
Nay về hỏi đặng mấy thằng con ?
ĐỨC THẦY họa :
Cõi thế nhìn ta gọi tiếng đon,
Phàm nhơn chẳng rõ nói eo tròn ?
Hoàn-cầu luân-chuyển nên mờ mắt,
Tháng cuối rồi qua cũng một con.
Nhơn-Nghĩa, ngày 14 tháng 6 dl. 1940 (Canh-Thìn)
Hỏi HẰNG-NGA : ( Cổ-Thi )
Ớ ớ Hằng-Nga dám hỏi đon,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn ?
Đông qua Dương-cốc bao nhiêu dặm ?
Tây đến U-đô cách mấy hòn ?
Trang 374
Uống thuốc trưng-sanh đà mấy lượng ?
Lấy chồng Hậu-Nghệ bấy nhiêu con ?
Ba mươi, mồng một đi đâu vắng ?
Hay có tư tình với nước-non ?
ĐỨC THẦY họa :
Bởi tại vì ai có tiếng đon,
Luân-luân chuyển-chuyển mãi eo tròn.
Nam-thiền quê cũ mù xa dặm,
Bắc-lý nhà xưa mịt núi hòn.
Tiên trưởng đơn hay dầu ức lượng,
Phật Thần dược giỏi gắng tìm con.
Thương đời phi pháp tuy nhà vắng,
Những để đền bù với nước-non.
Vịnh HẰNG-NGA : (Cổ-Thi)
Khen ai cắc-cớ bám trời tây,
Tỉnh giấc Hằng-Nga khéo vẽ mày.
Một phiến linh-đinh trôi mặt biển,
Nửa vừng lửng-đửng dán trên mây.
Cá ngờ câu thả tơi-bời lội,
Chim tưởng cung trương sập-sận bay.
Nên một nên hai còn bé tuổi,
Mười lăm mười bảy bốn phương hay.
ĐỨC THẦY họa :
Mây hồng năm sắc ở phương tây,
Sáng-suốt ô kim bởi vẹn mày.
Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển,
Lưỡi mềm lời lớn dậy Rồng Mây.
Trang 375
Lòng trong Thánh kệ tình bơi lội,
Dạ sạch Phật kinh ý luyện bay.
Dầu cho thân mỗ thanh xuân tuổi,
Thức giấc đời mê phải được hay.
*
Nhơn-Nghĩa, ngày 14-6 Canh-Thìn
BạC-LIÊU
Diệu-vợi đàng xa đến Bạc-Liêu,
Thiền-môn vẹn-vẽ quá tiêu-điều.
Bồng-Lai tại thế non dường sánh,
Đẹp-đẽ cho ta trổi nhạc thiều.
*
* *
Bổn-đạo trông chừng chữ Bạc-Liêu,
Cớ sao giành muốn cấm lời diêu.
Lưng-chưng bèo giạt thân hành đạo,
Bị lũ a-dua cá út thiều.
*
* *
Lá phép xin về tỉnh Bạc-Liêu,
Ngụ nơi gia-trạch Hội-đồng Điều.
Lòng trông Chánh-phủ cho hay chẳng,
Khó dễ làm gì việc bấy nhiêu ?
Trang 376
Nhơn-Nghĩa ( Xà-No ), lối tháng 6 năm Canh-Thìn
<< TỪ-GIÃ LÀNG NHƠN-NGHĨA >>
Kể từ mười tám tháng tư,
Canh-Thìn lưu chữ thiện-từ tới đây.
Cho làng Nhơn-Nghĩa biết Thầy,
Đem truyền mối Đạo thang mây chỉ chừng.
Nay vì thi vận chuyển-luân,
Ở trong cõi tạm đã từng đổi thay.
Cầu cho già trẻ gái trai,
Rủ nhau niệm Phật liên-đài ắt lên.
Thế-gian ngay thảo đáp đền,
Ngày sau sẽ được chăn mền thơm-tho.
Tục kêu là rạch Xà-No,
Vàm kinh ông Bổn eo-co khúc đưng.
Ngày Thầy lìa cách quê-hương,
Về đây nương ngụ bởi thương dân lành.
Phủi trần xóa bỏ lợi danh,
Quyết lòng lánh trược tầm thanh mai chiều.
Thuở xưa thi buổi Thuấn-Nghiêu,
Thái-bình thạnh-trị mến yêu khắn tình.
Chớ đâu đồ-thán sanh-linh,
Bởi nay lỗi đạo kệ kinh ngạo cười.
Lo cho mình được đẹp tươi,
Phụ-phàng nghĩa cả lại cưi Phật Tiên.
Luật Tri báo ứng nhãn-tiền,
Khắp trong thiên-hạ đảo-huyền từ nay.
Ra đi để lại một bài,
Cho trong bổn-đạo hôm mai rèn lòng.
Băng chừng tách dặm xa trông,
Dân-sanh gặp trận trời long hầu kề.
Trang 377
Tới lui bùa thuốc bộn-bề,
Chơn dời khỏi cửa ra về phủi ơn.
Thấy đời tu dối khuyên-lơn,
Từ đây sửa lại gặp cơn thái-bình.
Phật Tri đâu dụng phép linh,
Chỉ dùng đạo-đức mặc tình ghét ưa.
Nghinh-ngang làm thiếu lấy thừa,
Mẹ cha chẳng kể dối lừa ngỗ-ngang.
Ngày nay mới đến Phật-đàng,
Niệm một tiếng Phật đòi an bịnh liền.
Chậm lành chê Phật ngạo Tiên,
Rồi sau tội nghiệp liên-miên tới mình.
Dương-trần phú trọng bần khinh,
Mảng lo bươi móc cầu vinh thân phàm.
Biết sao đầy được túi tham,
Không ngăn không đáy càng làm không kiêng.
Mỉa-mai đến kẻ tu hiền,
Làm cho thỏa chí mới yên giấc nồng.
Gẫm đời bụng dạ gai chông,
Nên còn khổ-sở trời đông túng nghèo.
Nhìn dân ruột thắt gan teo,
Rán tầm gậy cũ mà leo qua bờ.
Nếu không, gặp cảnh bơ-vơ,
Thuyền ghe chẳng có bến bờ cũng không.
Một mai thấy được non Bồng,
Cảnh Tiên rực-rỡ mây rồng đẹp thay.
Lại thêm thấy chốn Phật-đài,
Không già không bịnh chẳng ngày nào lo.
Bây giờ Lão lại thúc đò,
Đưa qua bến giác dông to tới nhà.
Trang 378
Vậy mà còn ghét kệ ca,
Không gây tình-cảm để Già nhọc khuyên.
Thương đời ta phải truân-chuyên,
Bạc-Liêu xứ ấy ta liền đến nơi.
Giã-từ bổn-đạo ít lời,
Gìn câu nguyện vái chớ lơi nghĩa Thầy.
Bớt lòng thương nhớ từ đây,
Chẳng nên bịn-rịn để Thầy an tâm.
Nhớ lời dạy-dỗ ca ngâm,
Di-Đà sáu chữ trì tâm chớ sờn.
Cuộc trần Thầy tỏ thiệt hơn,
Mấy người bê-trễ chậm chơn tới Thầy.
Nghe theo lời chỉ sau đây,
Lãnh bài cầu nguyện về rày mà tu.
Dạy dân đầu tóc rối bù,
Mà trong bá-tánh hiềm-thù chi ta.
Trễ chơn Thầy mắc đi xa,
Hỏi thăm Hương-bộ vậy mà cách tu.
Trăng còn khi tỏ khi lu,
Cho nên phận Lão viễn-du đổi dời.
Càng đi càng biết nhiều nơi,
Càng đem chơn-lý tuyệt-vời phổ thông.
Người Khùng trí lại cuồng-ngông,
Cớ sao thế-cuộc lảu-thông cũng kỳ.
Xả thân tầm Đạo vô-vi,
Nhiệm-mầu thâm-diệu nan-tri Lão bày.
Cầm hương chắp lại hai tay,
Đưa lên trên trán nguyện bài qui-y.
Nguyện rồi xá xuống tức thì,
Cắm hương rồi cũng đứng thì thẳng ngay.
Trang 379
Đọc qua lời nguyện một bài,
Lạy luôn bốn lạy tạ rày tông-gia.
Bàn tay lật ngửa vậy mà,
Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh.
Đi xa thì phải dặn rành,
Bàn thông-thiên cũng thiệt-hành như y.
Bốn phương đều đọc vậy thì,
Cúi đầu bái tạ từ-bi Phật Tri.
Sớm chiều bình-đẳng chớ lơi,
Thưng hành như vậy nhớ lời đừng sai.
Có đau xem thuốc ba bài,
Tâm thành cầu nguyện ắt nay bịnh lành.
Giấy vàng xé nhỏ đành-rành,
Để trên bàn Phật chí thành uống ngay.
Thánh Thần phưởng-phất hồn bay,
Ở đâu cũng đến độ rày chúng-sanh.
Con rồng mới nửa gút nanh,
Mà trong bá-tánh thất thanh hãi-hùng.
Chừng nào Thầy lại gia trung,
Thì trong bổn-đạo bóng tùng phủ che.
Trách dân còn tiếc lụa the,
Chẳng làm phước-thiện họa e đến mình.
Hết nhục rồi lại đến vinh,
Nghe không thì cũng mặc tình thế-gian.
Để cho dân-sự luận bàn,
Nếu tu thì phải chọn vàng lừa thau.
Cá to mà phải ở ao,
Muốn ra biển rộng phải nhào kiếm sông.
Một mai dạo được Tây,Đông,
Khắp trong thế-giái thỏa lòng ước-mơ.
Trang 380
Nuôi tằm ắt được nên tơ,
Nếu ta làm phải phước hờ bên lưng.
Núi non rừng thẳm cũng từng,
Bây giờ phiêu-lạc ta mừng khắp nơi.
Cho dân đều hiểu cuộc đời,
Thiên-cơ để dạ Lão thi yên thân.
Đại-đồng chuông Đạo bon ngân,
Cho người say ngủ tỉnh lần giấc mê.
Biết lo sửa kiểng trồng huê,
Thơm-tho gia-trụ danh đề Tổ-Tông.
Bấy lâu lòng những ước-mong,
Cha con hội-hiệp thì lòng mới nguôi.
Từ nay ai có tới lui,
Cúi đầu bái Phật lòng vui tu-hành.
Xin đừng đeo-đắm lợi-danh,
Bỏ trôi đạo-đức hư danh dạy truyền.
Mai sau được gặp cõi Tiên,
Phỉ tình nguyện-ước khỏi phiền lòng ta.
Vài lời để lại khuyến ca,
Truy phong tách gót đường xa xứ người.
Trò buồn Thầy lại tức cười,
Đâu đâu bá-tánh cũng người Trời sanh.
Gần xa Thầy chỉ đành-rành,
Quyết tuyển con lành đem lại Phật-gia.
Cáo-từ làng xóm trẻ già,
Chúc cầu lạc-nghiệp nhà nhà ấm no.
Nhơn-Nghĩa ( Xà-No ), ngày rằm tháng 6 Canh-Thìn
Trang 381
NGAO-NGÁN TÌNH ĐỜI
Ngao-ngán tình đời gẫm cuộc âu,
Đông, Tây, Nam, Bắc cũng chung bầu.
Vì sao thế sự người sang cả,
Phân-biệt tước quờn áo rẽ bâu.
*
* *
Rẽ bâu dầu có, có mà chi,
Những mảng say sưa mặt cố lỳ.
Múa mỏ khua môi tài biệt thự,
Giống nòi Nam-Việt mãi chia ly.
Xà-No, năm Canh-Thìn
*
AI NGƯỜI TRI-Kỷ
Nghĩ việc đời xưa gẫm việc nay,
Ai người tri-kỷ ai là ai ?
Tái-sanh chọn lựa trang hiền thảo,
Thức tỉnh tâm trung sẽ vẹn mày.
*
* *
Vẹn mày mới đẹp, đẹp Tiên-gia,
Tông-Tổ thơm-tho phước hải-hà.
Tịch-mịch huyền-sâu ai hiểu đặng,
Ắt là thấu tích sĩ cuồng ca.
*
* *
Cuồng ca nẻo Đạo chốn huyền thâm,
Nghĩ việc xa xa ruột tím bầm.
Đau-đớn cho đời ôi thảm họa,
Mạch sầu có miệng lại dưng câm.
Trang382
Dường câm khó nói, nói còn e,
Thiện tín thờ-ơ nỗi rụt-rè.
Tiếng động bên tường nghe vẳng-vẳng,
Sức hèn như chấu chống ngàn xe.
*
* *
Ngàn xe muốn nghiến chấu còn bay,
Nước túng tìm phương chống kẻ tài.
Rốt cuộc tương-lai do quyết định,
Phương trời xa thẳm nắm quyền oai.
*
* *
Quyền oai thế-hệ cực ta mang,
Luân-chuyển nhơn-sanh lắm cuộc nàn.
Ai hỡi dân lành ta sẽ đợi,
Đạo người sửa trọn dứt lầm-than.
*
* *
Lầm-than khói lửa với binh-đao,
Âu Á lung-tung nhuộm máu đào.
Bá-tánh say-sưa mùi phú-quí,
Sau nầy sẽ vướng cảnh đồ-lao.
*
* *
Đồ-lao muốn lánh sớm nghe ta,
Bố thí trì chay giữ giới mà.
Phật Đạo trau-giồi tâm tánh lại,
Giác thuyền chuyên chở lúc can-qua.
*
* *
Can-qua dân chúng chớ buồn lo,
Tích đức ch ta chốn hẹn-hò.
Tiên cảnh Phật đài xem rực-rỡ,
Hoàn-cầu đến đó ấm cùng no.
Trang 383
Cùng no bốn biển một cha thôi,
Bỏ dứt thói hư với tật tồi.
Trên có Phật Trời soi việc thế,
Dưới đầy cơm áo Lão về ngôi.
Nhà thương Chợ-quán, đêm 18-7 Canh-Thìn (1940)
*
SẮP MÀN CẢNH TRÍ
Cảm bấy lòng ta nỗi thẹn-thuồng,
Sắp màn cảnh trí chửa nên khuôn.
Chúng-sanh lỡ bước ngơ bờ bến,
Nhơn-loại tầm đường ngán bụi truông.
Tạo-hóa khiến đời mang sống khổ,
Đất trời xui đạo bị dông luồng.
U-hoài tưởng lại thân lưu-lạc,
Rừng thẳm khát-khao kiếm suối nguồn.
Nhà thương Chợ-quán, năm Canh-Thìn
*
HIẾN THÂN SÃI KHÓ
Bá nhựt thân nầy chịu nạn-tai,
Cầu xin Phật-Tổ vẽ tuồng hay.
Giúp cho Sãi khó qua bờ giác,
Trừ lũ yêu ma khuấy chọc Ngài.
*
* *
Nhưng Ngài biến-hóa ở Tây-Phương,
Còn Sãi dấn thân cảnh đoạn-trưng.
Nam-Hải Quan-Âm bình nước tịnh,
Rưới giùm bá-tánh bớt tai-ương.
Trang 384
Phận tớ xác phàm tớ sẽ dưng,
Cúng dưng cho Phật, Phật đành ưng.
Dù cho phải chịu ngàn cay đắng,
Cũng nguyện Đạo mầu sẽ chấn-hưng.
*
Nhà thương Chợ-quán, năm Canh-Thìn
BÓNG HỒNG
Bóng hồng vừa mới thoáng qua,
Nhơn-sanh tỉnh giấc tìm nhà Thánh Tiên.
Thánh chúa phán ra miền Nam-địa,
Mặc cho đời mai-mỉa cười chê.
Nhìn dân châu lụy ủ-ê,
Biết sao trút hết gánh về ta mang.
Mang cho hết tai-nàn thế-giới,
Kẻ tâm lành bớt đợi chờ trông.
Cốt xưa thiệt giống Lạc-Hồng,
Trên hòa dưới thuận một lòng mến yêu.
Nay hiếm kẻ ỷ nhiều tiền của,
Vội làm trò hát múa lăng-xăng.
Xâu nhau đặng có tranh ăn,
Cùng là giành mặc cho bằng ngoại-bang.
Người sao lại bỉ-bàng tôm cá,
Thức ăn thừa khiếp nỗi ném quăng.
Kẻ nghèo lo chạy ngày hằng,
Lại không đủ bữa rối nhăng đời người.
Xem thế-sự biếng cười biếng khóc,
Chẳng rung-rinh quèo móc chi ta.
Cười là cười thói ranh ma,
Khóc là khóc kẻ chưa ta dỗ-dành.
Trang 385
Cơn lỡ-dở buồn tanh chuyện quái,
Tim non đời kinh-hãi bao phen.
Từ xưa ông cống xù quèn,
Ngày nay ông bịnh ông ghen việc nhà.
Bởi mắc việc đi xa đánh chén,
Bà ở nhà sẽ lén cải trang.
Sét tin ruột nọ bàng-hoàng,
Gượng say làm tỉnh rỗi nhàn cụng ly.
Thấy hiếm kẻ vô nghì lạc Đạo,
Đua một lòng làm bạo làm xằng.
Ai mà xét đến ăn-năn,
Quày đầu hướng thiện bần tăng dắt giùm.
<< BÓNG HỒNG >>
( Tiếp theo bài trước )
Mắt thấy đứa vô nghì phát giận,
Ngặt nỗi mình còn bận pháp-thân.
Chờ con đầy-đủ nghĩa-nhân,
Ra tay tế-độ dắt lần về ngôi.
Có ngày mở rộng qui-khôi,
Non thần vang chuyển Khùng ngồi xử phân.
Huyền cơ máy tạo xoay vần,
Đồng về Phật-cảnh mười phần xinh tươi.
Thánh Tiên vừa nhích miệng cười,
Chúc mừng trần-thế có người chơn tu.
Ngày nay vừa lúc trăng thu,
Tiết trời ảm-đạm mịt-mù gió mây.
Mưa phùn lác-đác đượm bay,
Canh tràng thơ-thẩn thân Thầy bơ-vơ.
Trang 386
Truân-chuyên Tạo-hóa thờ-ơ,
Đưa người lương-thiện lỡ bờ xa quê.
Ru con buồn ngủ chưa mê,
Tằm đòi lên kén sợ dê phá chuồng.
Nực cười cho lũ sói muông,
Đem điều cay nghiệt phá tuồng Thuấn-Nghiêu.
Đến sau phách-lạc hồn-xiêu,
Rã-rời thân thể mang nhiều họa-ương.
Ai ôi ! hãy ngắm cho tường,
Nhìn ông tận mặt hùng-cường làm chi ?
*
( Viết tại nhà thương Chợ-quán, ngày 25-8 Canh-Thìn )
[trang chủ|Phật giáo|tin mới|Chat|plog|3G Media|Wapmaster]